Thứ năm, 15/12/2022
Các khoản vay quốc tế đang rầm rộ chảy vào các NH Việt Nam trong năm 2022. Điều này cho thấy tín hiệu tốt về năng lực của nhiều NHTMCP trong nước. Song nhóm được cấp tín dụng từ các định chế tài chính nước ngoài vẫn là những “gương mặt cũ”, bởi yêu cầu nhiều hơn trong quy trình thẩm định cho vay, nên không phải nhà băng nào cũng đáp ứng được.
Lễ ký kết thỏa thuận vay hợp vốn giữa VPBank và các định chế tài chính nước ngoài trị giá 500 triệu USD.
“Dòng thác” vốn vay nước ngoài
Cuối tháng 11, Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) đã hoàn tất giải ngân cho VPBank khoản vay trị giá 150 triệu USD, tương đương 3.700 tỷ đồng. Trung tuần tháng 11, VPBank cũng đã ký kết thỏa thuận vay hợp vốn trị giá 500 triệu USD. 5 định chế tài chính lớn tham gia cung cấp khoản vay cho VPBank gồm NH Phát triển châu Á (ADB), Tập đoàn tài chính Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), NH ANZ và Công ty Chứng khoán Maybank Securities Pte. Ltd.
Năm nay hàng loạt nhà băng công bố đạt được các khoản vay vốn lớn từ các tập đoàn tài chính nước ngoài. Cụ thể, VIB vừa hoàn tất rút vốn khoản vay trị giá 150 triệu USD từ IFC. Hồi tháng 3, ADB và VIB công bố thỏa thuận khoản vay hợp vốn trị giá 260 triệu USD. Đây là khoản vay tín chấp có thời hạn 3 năm, bao gồm khoản vay trực tiếp trị giá 100 triệu USD từ ADB và khoản vay hợp vốn trị giá 160 triệu USD, do ADB và UOB đồng thu xếp từ 9 định chế tài chính hàng đầu châu Á.
Trong tháng 11, Tập đoàn Tài chính phát triển quốc tế Mỹ (DFC) cũng đã ký kết cho SeABank vay 200 triệu USD trong 7 năm. Trước đó vào đầu năm, SeABank được IFC và 5 quỹ đầu tư quốc tế mở rộng gói tín dụng từ 150 triệu USD lên 220 triệu USD sau 6 tháng hợp tác. Vừa rồi, phía IFC cũng đã có đề xuất về khoản đầu tư tổng cộng 320 triệu USD vào 3 NH là SHB, VIB và OCB để hỗ trợ danh mục cho vay dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV). Một kỷ lục phải kể đến là vào tháng 6, Techcombank được 26 NH quốc tế tham gia cho vay trong giao dịch hợp vốn trị giá 1 tỷ USD.
Một hình thức vay vốn nước ngoài khác cũng được NH hướng đến là phát hành trái phiếu quốc tế. Đầu năm 2022, IFC (Quỹ Đầu tư LeapFrog Investments) và DEG (của Đức) đầu tư 165 triệu USD vào trái phiếu chuyển đổi cấp 2 của HDBank. Hiện tại, HDBank đang lấy ý kiến cổ đông phát hành 500 triệu USD trái phiếu chuyển đổi cho nhà đầu tư quốc tế. Trái phiếu chuyển đổi bổ sung vốn tự có cấp 2 này có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của nhà băng này. Vốn từ đợt phát hành sẽ giúp NH bổ sung nguồn vốn trung, dài hạn, phục vụ các kế hoạch tăng trưởng theo chiến lược đề ra.
Dòng vốn quốc tế tài trợ cho các NH Việt Nam gần đây cũng đa dạng hơn về mục đích. Mục đích truyền thống của các hoạt động tài trợ vốn là để các NH mở rộng danh mục cho vay DNNVV, DN do phụ nữ làm chủ, các dự án trong lĩnh vực môi trường và chống biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Song đa dạng hơn, khoản vay 150 triệu USD từ IFC có kỳ hạn 5 năm với mục đích hỗ trợ VIB đẩy mạnh danh mục cho vay khách hàng cá nhân mua, xây dựng, sửa chữa nhà để ở.
Ưu thế chỉ dành cho nhà băng uy tín
Việc huy động vốn quốc tế ở thời điểm này sẽ làm giảm bớt áp lực huy động vốn trong nước. Dĩ nhiên, việc huy động vốn quốc tế sẽ đối diện với các thách thức về quản lý rủi ro lãi suất và cả tỷ giá. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng NHNN có đủ công cụ điều tiết để nguồn vốn đó được đem đi đầu tư hoặc tái đầu tư.
Trong khi đó, nguồn vốn này có thể giúp NH cân đối được việc thiếu vốn trung và dài hạn đã và đang tồn đọng nhiều năm qua. Ngoài ra, việc gọi vốn quốc tế thành công từ các định chế tài chính lớn ở phương Tây không chỉ giúp các NH có thêm nội lực, khả năng hoạt động để mở rộng thị trường, còn là động thái để khẳng định lại uy tín, thương hiệu trên thị trường quốc tế, thu hút trở lại các đối tác ở các thị trường khó tính.
Nền kinh tế Việt Nam rất cần vốn. So với vốn đầu tư trực tiếp (FDI), dòng tiền từ hoạt động tài trợ tín dụng gián tiếp từ các tổ chức nước ngoài giảm được khâu xét duyệt liên quan đến các vấn đề hiệu quả, ảnh hưởng môi trường… Bên cạnh đó, so với các DN phi tổ chức tín dụng (TCTD), thì điều kiện vay vốn nước ngoài của các TCTD cũng nhẹ hơn.
Hay như các TCTD muốn vay vốn trung và dài hạn nước ngoài phải tuân thủ các quy định của NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động NH. Trong khi đó, các DN phi TCTD phải đáp ứng nhiều điều kiện hơn về xét duyệt và quy định về dư nợ vay. Trong dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 12/2014/TT-NHNN quy định về điều kiện vay nước ngoài của DN không được Chính phủ bảo lãnh, đã được NHNN xây dựng mới đây, có xu hướng quản lý chặt chẽ hơn hạn mức, giới hạn vay nước ngoài của DN không phải là TCTD.
Dù có thuận lợi hơn các DN phi TCTD trong tiếp cận vốn vay quốc tế, nhưng những NH được các định chế tài chính nước ngoài tài trợ tín dụng trong các năm gần đây chưa có nhiều thay đổi, khi vẫn là những NH đã từng có lịch sử được tài trợ nhiều năm trước đó. Điều này cho thấy, dòng vốn này không phải nhà băng nào cũng tiếp cận được.
Bởi lẽ để huy động thành công khoản vay hợp vốn trên thị trường quốc tế hay phát hành trái phiếu quốc tế với giá trị lớn, lãi suất và kỳ hạn hấp dẫn, các NH phải trải qua sự thẩm định kỹ của các tổ chức quốc tế về chất lượng hoạt động, quản trị rủi ro, tiềm năng phát triển và chiến lược phân khúc phù hợp với tiêu chí của họ.
Vì thế, đã có rất nhiều NH quy mô nhỏ lâu nay vẫn đi tìm kiếm đối tác chiến lược nước ngoài nhưng thất bại, do không đáp ứng được các tiêu chí theo thông lệ quốc tế. Tương tự, tình trạng “sức khỏe” cũng như định hướng phân khúc khách hàng của nhiều NH hiện nay chưa phù hợp với quy chuẩn xét duyệt, dẫn đến việc họ bị loại khỏi danh sách quan tâm của các định chế tài chính lớn.
Nếu muốn gọi vốn ở cả phương diện đầu tư chiến lược lẫn tài trợ tín dụng, các NH phải định hướng lại hoạt động của mình phù hợp với xu thế đầu tư của quốc tế.
Đỗ Linh/Sài Gòn đầu tư tài chính