Nghiên cứu – Nhipcaudoanhnhan.com https://nhipcaudoanhnhan.com Diễn đàn nhịp cầu doanh nhân Sun, 28 Sep 2025 08:53:23 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/nhipcaudoanhnhan/2025/08/nd.svg Nghiên cứu – Nhipcaudoanhnhan.com https://nhipcaudoanhnhan.com 32 32 COVID-19 có thể làm tăng nguy cơ tái phát ung thư vú ở bệnh nhân khỏi bệnh https://nhipcaudoanhnhan.com/covid-19-co-the-lam-tang-nguy-co-tai-phat-ung-thu-vu-o-benh-nhan-khoi-benh/ Sun, 28 Sep 2025 08:53:16 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/covid-19-co-the-lam-tang-nguy-co-tai-phat-ung-thu-vu-o-benh-nhan-khoi-benh/

Một nghiên cứu gần đây đã đưa ra bằng chứng cho thấy các nhiễm trùng đường hô hấp như COVID-19 và cúm có thể đóng vai trò kích hoạt lại các tế bào ung thư vú vốn đang trong trạng thái ngủ đông ở những bệnh nhân đã thuyên giảm. Các tế bào ung thư này có khả năng tồn tại trong nhiều cơ quan như phổi, xương và gan sau khi bệnh nhân hoàn thành điều trị ung thư vú.

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một mối liên hệ đáng chú ý giữa nhiễm trùng COVID-19 và cúm với sự tái hoạt của các tế bào ung thư vú đang ngủ đông trong phổi. Dựa trên phân tích dữ liệu từ gần 37.000 bệnh nhân, họ nhận thấy rằng việc nhiễm COVID-19 có liên quan đến nguy cơ tăng cao hơn 40% đối với ung thư vú di căn tại phổi.

Để làm rõ hơn về hiện tượng này, các thí nghiệm trên chuột đã được tiến hành. Kết quả cho thấy cả nhiễm cúm và COVID-19 đều có thể kích hoạt các tế bào ung thư vú đang ngủ đông chỉ trong vài ngày sau khi nhiễm bệnh. Trong vòng hai tuần, sự mở rộng lớn của các tế bào ung thư thành các tổn thương di căn đã được quan sát, với kích thước gấp hơn 100 lần so với ban đầu.

Một yếu tố quan trọng được cho là có vai trò trong việc tái hoạt động của các tế bào ung thư vú là phản ứng của hệ miễn dịch cơ thể. Sau khi bệnh nhân thuyên giảm ung thư vú, vẫn có thể tồn tại một số lượng nhỏ tế bào ung thư trong các mô như phổi, xương và gan. Trong một số trường hợp, tình trạng viêm có thể là nguyên nhân đánh thức các tế bào này.

Trước đây, các nhà khoa học đã nghi ngờ rằng một số loại virus thông thường, như virus Epstein-Barr, có thể kích hoạt một số loại ung thư. Virus papillomavirus ở người (HPV) cũng đã được chứng minh là có liên quan đến ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên, nghiên cứu về tế bào người vẫn còn hạn chế, và cơ chế chính xác về cách virus kích hoạt bệnh ung thư lan rộng vẫn chưa được hiểu đầy đủ.

Các phát hiện này gợi ý rằng phản ứng miễn dịch của cơ thể có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc tái hoạt động của các tế bào ung thư đang ngủ đông. Tuy nhiên, vẫn cần nhiều nghiên cứu hơn để xác định liệu việc tiêm chủng có thể giúp ngăn chặn sự tái hoạt động này hay không. Thông tin chi tiết về nghiên cứu có thể được tìm hiểu thêm tại ScienceMag và các ấn phẩm liên quan khác. Trên cơ sở này, kỳ vọng rằng những nghiên cứu tiếp theo sẽ cung cấp thêm thông tin và hướng đi mới trong việc ngăn ngừa và điều trị ung thư vú.

]]>
Não bộ phản ứng thế nào khi nhìn người khác, điều gì hấp dẫn sự chú ý? https://nhipcaudoanhnhan.com/nao-bo-phan-ung-the-nao-khi-nhin-nguoi-khac-dieu-gi-hap-dan-su-chu-y/ Sat, 20 Sep 2025 10:07:47 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/nao-bo-phan-ung-the-nao-khi-nhin-nguoi-khac-dieu-gi-hap-dan-su-chu-y/

Một nghiên cứu gần đây đã xác định được các mẫu hình視覺 mà con người sử dụng khi đánh giá cơ thể, cho thấy sự chú ý tập trung nhiều nhất vào ngực và thân mình. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng công nghệ theo dõi mắt để chỉ ra rằng các mẫu nhìn này bị ảnh hưởng bởi chỉ số khối cơ thể và đánh giá cụ thể đang được thực hiện. Những phát hiện này vừa được công bố trong Behavioral Sciences.

Trước đây, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người hình thành ấn tượng nhanh chóng và nhất quán dựa trên ngoại hình, bao gồm hình dạng và kích thước cơ thể. Tuy nhiên, vẫn còn tương đối ít được biết về nơi con người nhìn trong quá trình đánh giá này. Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều tập trung vào sự hấp dẫn, thường sử dụng ảnh hoặc mô hình giới tính đơn. Đội ngũ nghiên cứu mới này đã đặt mục tiêu khám phá cách chỉ số khối cơ thể ảnh hưởng không chỉ đến đánh giá của con người về sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, mà còn cả mẫu hình視覺 của họ khi đưa ra những đánh giá này.

Tác giả nghiên cứu Edward Morrison, một giảng viên cao cấp tại Đại học Portsmouth, cho biết: ‘Nghiên cứu này được thực hiện với sinh viên đại học và tác giả cùng nghiên cứu, Marianne Lanigan. Cô ấy quan tâm đến việc sử dụng theo dõi mắt cho dự án nghiên cứu đại học của mình, và chúng tôi đã kết hợp điều này với sự quan tâm của tôi trong nhận thức xã hội – đánh giá chúng tôi đưa ra về người khác.’

Có rất nhiều nghiên cứu về cách chúng ta đánh giá người khác từ vẻ ngoài, bao gồm cả cách họ gầy hoặc béo, nhưng có ít nghiên cứu về cách chuyển động mắt của con người khác nhau khi nhìn vào những cơ thể này, và không có gì về chuyển động mắt khi đưa ra các đánh giá khác nhau về cùng một cơ thể. Trong trường hợp của chúng tôi, chúng tôi đã xem xét đánh giá về sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, tất cả đều được cho là chỉ số tiến hóa của sự phù hợp.

Để điều tra vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã tuyển dụng 32 người tham gia, chủ yếu là sinh viên tâm lý học đại học, với độ tuổi trung bình khoảng 20 tuổi. Hầu hết đều là nữ và xác định là dị tính hoặc song tính. Nghiên cứu được thực hiện trong một môi trường phòng thí nghiệm được kiểm soát, nơi những người tham gia xem hình ảnh kỹ thuật số của các mô hình nam và nữ khác nhau có chỉ số khối cơ thể một cách có hệ thống. Các mô hình được tạo ra bằng công cụ trực tuyến, được tiêu chuẩn hóa về chiều cao nhưng khác nhau về trọng lượng cơ thể để mô phỏng các hạng mục gầy, cân nặng thấp, cân nặng cao, thừa cân và béo phì.

Những người tham gia được yêu cầu đánh giá mỗi mô hình trên ba chiều – sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, sử dụng thang điểm Likert sáu điểm. Trong khi thực hiện điều này, thiết bị theo dõi mắt đã ghi lại nơi và thời gian họ nhìn vào các bộ phận khác nhau của cơ thể, bao gồm đầu, ngực, eo, đùi và chân dưới. Mỗi hình ảnh được hiển thị trong năm giây, và những người tham gia hoàn thành một loạt các thử nghiệm, đầu tiên là đánh giá tất cả năm mô hình nữ về sự hấp dẫn, sau đó là sức khỏe và tuổi trẻ, và lặp lại quy trình tương tự cho các mô hình nam. Thứ tự trình bày hình ảnh được cân bằng để giảm thiểu sai sót.

Các nhà nghiên cứu đã phân tích cả dữ liệu theo dõi mắt và điểm đánh giá. Họ đã tìm thấy rằng sự chú ý視覺 không được phân bố đều trên cơ thể. Ngực và eo nhận được nhiều sự chú ý nhất và thời gian xem lâu nhất, trong khi đùi và chân dưới nhận được ít nhất. Thú vị là, những người tham gia có xu hướng nhìn lâu hơn và thường xuyên hơn vào các mô hình nam hơn là mô hình nữ. Mẫu hình này có thể đã bị ảnh hưởng bởi sự thống trị của phụ nữ dị tính trong nhóm tham gia.

Bộ phận cơ thể nhận được nhiều sự chú ý đã thay đổi theo kích thước cơ thể. Ở chỉ số khối cơ thể thấp hơn, con người dành nhiều thời gian hơn để nhìn vào eo, trong khi ở trọng lượng cao hơn, cái nhìn của họ chuyển hướng nhiều hơn đến ngực. Sự chú ý đến đầu tăng lên khi chỉ số khối cơ thể tăng lên, có thể phản ánh mối liên hệ giữa cân nặng và tuổi tác. Những thay đổi này xảy ra ngay cả khi những người tham gia không được yêu cầu một cách có ý thức để đánh giá các vùng cơ thể cụ thể.

Các loại đánh giá xã hội khác nhau cũng tinh vi ảnh hưởng đến hành vi nhìn. Khi những người tham gia đánh giá tuổi trẻ, họ có xu hướng nhìn nhiều hơn vào đầu, so với khi họ đánh giá sự hấp dẫn hoặc sức khỏe. Điều này có ý nghĩa khi khuôn mặt mang lại nhiều tín hiệu視覺 liên quan đến tuổi tác. Điểm đánh giá cho sức khỏe dẫn đến tập trung nhiều hơn vào ngực và phần eo, khu vực liên quan đến phân phối mỡ nhìn thấy và cơ bắp.

Khi nói đến điểm đánh giá thực tế, những người tham gia đánh giá mức độ cân nặng khỏe mạnh thấp nhất là hấp dẫn và khỏe mạnh nhất. Điểm đánh giá tuổi trẻ, trái lại, đạt đỉnh cao nhất đối với cơ thể nhẹ nhất – những cơ thể được phân loại là gầy. Điều này có thể phản ánh mối liên hệ văn hóa và tiến hóa giữa sự gầy, tuổi trẻ và tiềm năng sinh sản. Khi chỉ số khối cơ thể tăng lên, điểm đánh giá tuổi trẻ giảm dần cho cả mô hình nam và nữ.

Cũng có một số khác biệt trong cách những người tham gia đánh giá cơ thể nam và nữ. Mô hình nam gầy được đánh giá thấp hơn đáng kể về sự hấp dẫn và sức khỏe so với mô hình nữ gầy. Điều này có thể phản ánh cách cơ bắp thấp, thường đi kèm với cân nặng thấp, bị nhìn nhận tiêu cực ở nam giới. Đối với mô hình nữ, ngay cả những mô hình gần ngưỡng cân nặng khỏe mạnh vẫn được đánh giá cao về sự hấp dẫn và tuổi trẻ. Điều này phù hợp với lý tưởng văn hóa có xu hướng ưu tiên sự gầy ở phụ nữมาก hơn ở nam giới.

Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy các tương tác giữa giới tính của mô hình, loại đánh giá và chỉ số khối cơ thể. Ví dụ, mô hình nam khỏe mạnh nhất có chỉ số khối cơ thể cao hơn một chút so với mô hình hấp dẫn nhất, cho thấy rằng những người tham gia có thể liên kết một số cơ bắp với sức khỏe. Điều này trái ngược với các nghiên cứu trước đây cho thấy con người thường thích cơ thể gầy hơn ngay cả khi chúng trông kém khỏe mạnh. Sự khác biệt có thể do sự khác biệt văn hóa, vì các nghiên cứu trước đây cho thấy mô hình này sử dụng mẫu từ dân số châu Á, trong khi nghiên cứu hiện tại chủ yếu liên quan đến người tham gia gốc châu Âu.

Mặc dù nghiên cứu cung cấp cái nhìn sâu sắc mới về cách con người sử dụng tín hiệu視覺 để đánh giá người khác, nhưng nó vẫn có một số hạn chế. Kích thước mẫu nhỏ và thiên vị về giới tính và độ tuổi, điều này có thể hạn chế khả năng áp dụng của kết quả cho các dân số rộng lớn hơn.

‘Kết quả có thể khác nếu chúng tôi có đủ người xem nam để so sánh, vì các nghiên cứu khác cho thấy’, Morrison lưu ý. ‘Các kích thích của chúng tôi cũng là mô hình được tạo ra bởi máy tính mà không có khuôn mặt hoặc quần áo (nhưng không có cơ quan sinh dục). Điều này là để chúng tôi có thể kiểm soát kích thước cơ thể một cách thử nghiệm trong khi giữ mọi thứ khác không đổi. Tuy nhiên, chúng tôi có thể nhìn vào mô hình được tạo ra bởi máy tính khác với người thực.

Các nhà nghiên cứu đề xuất rằng các nghiên cứu trong tương lai nên bao gồm hỗn hợp người tham gia cân bằng hơn về giới tính và độ tuổi. Họ cũng đề xuất khám phá cách hình ảnh cơ thể và kinh nghiệm của mọi người có thể định hình đánh giá của họ về người khác. Các nghiên cứu trong môi trường tự nhiên hơn, chẳng hạn như sử dụng thiết bị theo dõi mắt có thể đeo trong khi quan sát mọi người ở nơi công cộng, cũng có thể giúp xác nhận liệu các mẫu quan sát trong phòng thí nghiệm có phản ánh hành vi trong thế giới thực hay không.

]]>
Cắt giảm tài trợ liên bang: Tương lai nghiên cứu của UCLA và sức khỏe người Mỹ bị đe dọa https://nhipcaudoanhnhan.com/cat-giam-tai-tro-lien-bang-tuong-lai-nghien-cuu-cua-ucla-va-suc-khoe-nguoi-my-bi-de-doa/ Mon, 08 Sep 2025 20:37:44 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/cat-giam-tai-tro-lien-bang-tuong-lai-nghien-cuu-cua-ucla-va-suc-khoe-nguoi-my-bi-de-doa/

Trong một thông điệp mới đây gửi đến cộng đồng Bruins, Tổng thống Đại học California, Los Angeles (UCLA) Julio Frenk đã bày tỏ sự thất vọng và lo ngại về quyết định của chính phủ liên bang Mỹ về việc tạm dừng một số nguồn tài trợ nghiên cứu mà trường đang nhận được. Quyết định này không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà nghiên cứu phụ thuộc vào các khoản tài trợ quan trọng này mà còn có tác động lâu dài đến người dân Mỹ trên toàn quốc, những người mà cuộc sống, sức khỏe và tương lai phụ thuộc vào các nghiên cứu đột phá do UCLA thực hiện.

Ông Frenk đã chia sẻ câu chuyện cảm động về Tiến sĩ Abbas Ardehali, một giáo sư tại UCLA, người đã thành công trong việc thực hiện ca cấy ghép phổi đầu tiên sử dụng Hệ thống chăm sóc Organ. Hệ thống này có khả năng giữ phổi sống sót bên ngoài cơ thể trong khi chờ cấy ghép, giúp mở ra một chương mới trong lĩnh vực y học cấy ghép và cứu sống hàng ngàn người Mỹ. Công trình của Tiến sĩ Ardehali là một trong nhiều ví dụ tiêu biểu cho thấy tầm quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp của nghiên cứu tại UCLA đối với cuộc sống thực của người dân.

UCLA là một trong những tổ chức hàng đầu nhận được tài trợ từ các cơ quan chính phủ liên bang như Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) và Viện Y tế Quốc gia (NIH) để thực hiện các nghiên cứu mang tính đột phá. Những nghiên cứu này không chỉ giới hạn trong các phòng thí nghiệm hoặc giảng đường mà còn có ý nghĩa thiết thực, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân trên toàn quốc. Chúng bao gồm các công trình nghiên cứu về các phương pháp điều trị mới cho các căn bệnh hiểm nghèo, công nghệ tiên tiến để giải quyết các thách thức môi trường và các phát hiện khoa học cơ bản giúp mở rộng hiểu biết của chúng ta về thế giới tự nhiên.

Ông Frenk đã nhấn mạnh rằng quyết định của chính phủ liên bang về việc ngừng tài trợ nghiên cứu là rất đáng thất vọng và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hàng trăm khoản tài trợ. Điều này có thể gây ra những ảnh hưởng xấu đến cuộc sống và công việc của các nhà nghiên cứu, giảng viên và nhân viên tại UCLA. Ông cũng lưu ý rằng quyết định này không chỉ ảnh hưởng đến UCLA mà còn có thể tác động rộng rãi đến cộng đồng nghiên cứu và xã hội nói chung.

Chính phủ liên bang đã đưa ra lý do cho quyết định này là do sự hiện diện của chủ nghĩa bài Do Thái và thiên vị trên khuôn viên trường. Tuy nhiên, ông Frenk đã khẳng định rằng UCLA đã thực hiện nhiều hành động mạnh mẽ và quyết liệt để biến khuôn viên trường trở thành một môi trường an toàn và chào đón tất cả sinh viên, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo hoặc xuất xứ.

Ông Frenk cũng muốn nhấn mạnh rằng tài trợ nghiên cứu của liên bang không phải là một món quà mà là một khoản đầu tư vào tương lai của đất nước. Các nhà nghiên cứu tại UCLA đã phải cạnh tranh gay gắt để có được những khoản tài trợ này và cam kết sử dụng chúng để mang lại lợi ích cho xã hội. Việc này không chỉ giúp thúc đẩy tiến bộ khoa học mà còn góp phần giải quyết các thách thức mà đất nước và thế giới đang phải đối mặt.

Trước tình huống này, UCLA đã chuẩn bị kỹ lưỡng và đang tích cực đánh giá các lựa chọn tốt nhất để bảo vệ lợi ích của giảng viên, sinh viên và nhân viên, cũng như bảo vệ các giá trị và nguyên tắc của trường. Mục tiêu chính là đảm bảo rằng UCLA tiếp tục có thể thực hiện các nghiên cứu chất lượng cao, mang tính đột phá và có ảnh hưởng tích cực đến xã hội.

]]>