Miền Núi – Nhipcaudoanhnhan.com https://nhipcaudoanhnhan.com Diễn đàn nhịp cầu doanh nhân Fri, 03 Oct 2025 02:38:41 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/nhipcaudoanhnhan/2025/08/nd.svg Miền Núi – Nhipcaudoanhnhan.com https://nhipcaudoanhnhan.com 32 32 Cán bộ miền xuôi lên Mường Lát: ‘Đưa cái bát lên, đưa cái bát xuống’ https://nhipcaudoanhnhan.com/can-bo-mien-xuoi-len-muong-lat-dua-cai-bat-len-dua-cai-bat-xuong/ Fri, 03 Oct 2025 02:38:34 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/can-bo-mien-xuoi-len-muong-lat-dua-cai-bat-len-dua-cai-bat-xuong/

Trong nỗ lực nhằm giải quyết tình trạng dôi dư cán bộ và khai phá tiềm năng của các vùng đất khó, giúp người dân thoát nghèo, tỉnh Thanh Hoá đã triển khai chính sách điều động cán bộ từ miền xuôi lên miền núi. Huyện biên giới Mường Lát, một trong những địa phương nghèo nhất cả nước, đang là điểm đến cho nhiều cán bộ trẻ.

Huyện Mường Lát, với 8 đơn vị xã, là nơi sinh sống của khoảng 41.000 nhân khẩu thuộc các dân tộc Thái, Mông, Dao, Khơ Mú, Mường, Kinh. Mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ, vùng đất này vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất và sinh kế. Theo điều tra xã hội học mới nhất, hơn 65% hộ dân tại Mường Lát là hộ nghèo hoặc cận nghèo.


Đời sống người dân còn nhiều khó khăn
Đời sống người dân còn nhiều khó khăn

Các hộ dân ở Mường Lát phụ thuộc vào nông nghiệp nhỏ lẻ và chăn nuôi, nhưng thường gặp khó khăn do thời tiết và dịch bệnh. Một vấn đề đáng ngại khác là nhiều hộ dân không dám vay vốn để phát triển kinh tế do sợ không có thu nhập để chi trả. Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đã được giao nhiệm vụ khảo sát và đánh giá thổ nhưỡng, khí hậu của Mường Lát để tìm ra loại cây, con phù hợp với điều kiện địa phương.

Tín hiệu vui từ chính sách luân chuyển, điều động cán bộ gần dân, sát dân
Tín hiệu vui từ chính sách luân chuyển, điều động cán bộ gần dân, sát dân

Dự án trồng xoan, lát đã được triển khai từ năm 2011 nhưng không thành công do không phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng. Hiện tại, một số người dân đã bắt đầu thử nghiệm trồng cây quế để lấy tinh dầu, và chính quyền địa phương đang chỉ đạo kiểm lâm kiểm tra chất lượng tinh dầu. Ngoài ra, mô hình trồng cỏ chăn nuôi gia súc cũng đã được triển khai và mang lại giá trị kinh tế cho các hộ gia đình.


Thiếu sinh kế người dân loay hoay tìm cách thoát nghèo
Thiếu sinh kế người dân loay hoay tìm cách thoát nghèo

Để hỗ trợ cán bộ vùng xuôi lên núi công tác, tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều chính sách và cơ chế hỗ trợ kịp thời. Mức hỗ trợ là 1,75 lần mức lương cơ sở mỗi người mỗi tháng đối với các trường hợp làm việc tại 38 xã thuộc các huyện vùng cao.


Sản xuất manh mún, nhỏ lẻ
Sản xuất manh mún, nhỏ lẻ

Ngày 31/7, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã ký quyết định điều động 176 công chức từ các xã, phường có số lượng dôi dư đến nhận nhiệm vụ tại các xã vùng cao, miền núi đang thiếu nhân lực theo quy định. Thời gian điều động bắt đầu từ ngày 1/8/2025 và kéo dài trong 3 năm. Sau thời hạn trên, công chức sẽ được xem xét bố trí trở lại nơi công tác cũ, trừ khi có nguyện vọng tiếp tục làm việc tại địa bàn mới, hoặc được phân công nhiệm vụ khác phù hợp. Trong thời gian công tác, họ sẽ được hưởng đầy đủ chế độ, chính sách hỗ trợ theo quy định.

Chính sách điều động cán bộ từ miền xuôi lên miền núi của tỉnh Thanh Hoá không chỉ giúp giải quyết tình trạng dôi dư cán bộ mà còn mang lại cơ hội phát triển cho người dân ở vùng đất khó. Với sự hỗ trợ kịp thời và cơ chế phù hợp, hy vọng rằng người dân tại Mường Lát và các vùng miền núi khác sẽ sớm thoát nghèo và cải thiện cuộc sống.

Việc điều động cán bộ cũng đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng và phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, cơ quan chuyên môn và người dân để đảm bảo hiệu quả của chính sách. Đồng thời, cần có các giải pháp đồng bộ để hỗ trợ người dân phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện sống và giảm nghèo bền vững.

Tỉnh Thanh Hoá đang trên đà triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ người dân và cán bộ công tác tại vùng miền núi. Với sự nỗ lực và quyết tâm, hy vọng rằng mục tiêu giảm nghèo và phát triển kinh tế tại các vùng đất khó sẽ sớm được thực hiện.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi https://nhipcaudoanhnhan.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Sat, 30 Aug 2025 08:40:39 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Vụ Pháp chế: Đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác dân tộc https://nhipcaudoanhnhan.com/vu-phap-che-day-manh-hoan-thien-he-thong-phap-luat-ve-cong-tac-dan-toc/ Sun, 03 Aug 2025 18:24:03 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/vu-phap-che-day-manh-hoan-thien-he-thong-phap-luat-ve-cong-tac-dan-toc/

Trong bối cảnh hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, và chính sách pháp luật đang là một nhiệm vụ quan trọng. Một trong những điểm nhấn quan trọng trong giai đoạn này là việc tham mưu cho cấp thẩm quyền ban hành Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Đây là một nỗ lực nhằm thúc đẩy sự phát triển của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Thủ tướng tới Điện Biên, thăm hỏi người dân, chỉ đạo khắc phục hậu quả thiên tai nặng nề
Thủ tướng tới Điện Biên, thăm hỏi người dân, chỉ đạo khắc phục hậu quả thiên tai nặng nề

Bên cạnh đó, đơn vị cũng đã tích cực tham mưu ban hành các nghị định về công tác dân tộc, về phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp trong lĩnh vực dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo và các thông tư hướng dẫn để chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025. Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Để cải thiện tình hình, cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế. Công tác xây dựng pháp luật phải tiên phong, đi trước và lấy chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng thể chế là ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, cần chuyên nghiệp hóa nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật; tăng cường kiểm tra, giám sát; xác định công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, thường xuyên của Bộ, cơ quan.

Vụ Pháp chế đã tham mưu ban hành Kế hoạch rà soát, hoàn thiện hệ thống, cơ chế, chính sách, pháp luật về lĩnh vực công tác dân tộc, chính sách dân tộc. Đồng thời, Vụ cũng đã tham mưu ban hành Kế hoạch xây dựng Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng và địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số; quyết định thành lập Tổ soạn thảo xây dựng dự thảo Đề án Phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Trong năm 2026, nhiệm vụ ưu tiên là đề xuất Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết mới về chủ trương, chính sách lớn, các đột phá chiến lược tầm nhìn đến năm 2045 về công tác dân tộc và trình Quốc hội sửa đổi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là những bước đi quan trọng nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách, góp phần thúc đẩy công tác dân tộc và sự phát triển của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>
Hội phụ nữ tỉnh giúp hàng ngàn người dân thoát nghèo nhờ vốn vay ưu đãi https://nhipcaudoanhnhan.com/hoi-phu-nu-tinh-giup-hang-ngan-nguoi-dan-thoat-ngheo-nho-von-vay-uu-dai/ Tue, 29 Jul 2025 09:54:21 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/hoi-phu-nu-tinh-giup-hang-ngan-nguoi-dan-thoat-ngheo-nho-von-vay-uu-dai/

Các cấp hội phụ nữ tỉnh đã đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối hội viên phụ nữ với nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội, giúp hàng nghìn phụ nữ tiếp cận tài chính kịp thời và hiệu quả. Quá trình vay và cho vay vốn được thực hiện một cách công khai, minh bạch, đúng đối tượng và đúng quy trình, đảm bảo rằng những người phụ nữ thực sự cần hỗ trợ có thể tiếp cận được nguồn lực tài chính này.

Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.
Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.

Với vai trò đồng hành và hỗ trợ, các cấp hội phụ nữ đã giúp hội viên phụ nữ tiếp cận nguồn vốn ưu đãi thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn. Hội viên được hướng dẫn lập hồ sơ vay vốn một cách bài bản, tư vấn cách sử dụng vốn hiệu quả và cam kết trả nợ đúng hạn. Qua đó, nhiều hội viên phụ nữ đã có thể khởi sự kinh doanh, xây dựng các mô hình kinh tế hiệu quả, và góp phần vào công cuộc giảm nghèo bền vững.

Một điển hình trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn ưu đãi là bà Đỗ Thị Lợi, thôn Chợ, xã Thống Nhất. Từ 3 cặp bò mẹ con ban đầu, sau 5 năm, nhờ sự kiên trì học hỏi kỹ thuật và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ, đàn bò của gia đình đã phát triển lên 50 con, cho thu nhập trên 200 triệu đồng/năm. Cuộc sống gia đình dần ổn định, khang trang, con cái học hành đầy đủ.

Bên cạnh đó, nhiều hội viên đã chuyển hướng sang kinh tế vườn tổng hợp. Bà Trần Thị Vân, xã Thống Nhất, với 3ha đất vườn đồi đã đầu tư trồng cây thanh long ruột đỏ, na, vải, ổi… cho thu nhập 150-200 triệu đồng mỗi năm. Nhờ nguồn vốn ưu đãi được tiếp cận minh bạch và sự hướng dẫn kỹ thuật từ hội phụ nữ, mô hình của bà không chỉ thành công, mà còn trở thành địa chỉ học tập cho nhiều chị em khác.

Để tạo điều kiện vay vốn làm ăn cho hội viên, Hội thường xuyên phổ biến các chính sách cho vay, công khai, minh bạch trong việc lựa chọn đối tượng được vay và giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ vay vốn. Sự phát triển của các mô hình kinh tế do phụ nữ làm chủ không chỉ thể hiện sự minh bạch trong cho vay vốn đúng người, đúng việc, mà còn cho thấy sự ứng dụng công nghệ trong quản lý và sản xuất.

Mô hình trang trại trứng gà Tân An của chị Phạm Thị Nguyệt Dung, phường Quảng Yên là một ví dụ. Nhờ số hóa quy trình từ chăn nuôi đến bán hàng, mỗi ngày trang trại cung cấp khoảng 5 vạn trứng ra thị trường, doanh thu đạt 60 tỷ đồng/năm, tạo việc làm cho hàng chục lao động.

Toàn tỉnh hiện có hàng trăm mô hình tổ tiết kiệm và vay vốn do phụ nữ quản lý. Nhờ hoạt động công khai, dân chủ, minh bạch, các mô hình này không chỉ giúp hội viên phát triển kinh tế, mà còn củng cố niềm tin vào tổ chức Hội. Những người phụ nữ từng e ngại tiếp cận tài chính, nay đã trở thành trụ cột kinh tế, chủ động trong sản xuất, kinh doanh và lan tỏa tinh thần khởi nghiệp đến cộng đồng.

Trong thời gian tới, các cấp hội phụ nữ tỉnh tiếp tục phát huy vai trò cầu nối chính sách, đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý vốn, đồng thời khuyến khích các mô hình phụ nữ làm chủ kinh tế tiếp cận công nghệ, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

]]>