Bản sắc văn hóa – Nhipcaudoanhnhan.com https://nhipcaudoanhnhan.com Diễn đàn nhịp cầu doanh nhân Sun, 28 Sep 2025 09:38:17 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/nhipcaudoanhnhan/2025/08/nd.svg Bản sắc văn hóa – Nhipcaudoanhnhan.com https://nhipcaudoanhnhan.com 32 32 Điện ảnh Hàn Quốc chinh phục thị trường quốc tế với bản sắc văn hóa riêng https://nhipcaudoanhnhan.com/dien-anh-han-quoc-chinh-phuc-thi-truong-quoc-te-voi-ban-sac-van-hoa-rieng/ Sun, 28 Sep 2025 09:38:13 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/dien-anh-han-quoc-chinh-phuc-thi-truong-quoc-te-voi-ban-sac-van-hoa-rieng/

Điện ảnh Hàn Quốc đang trải qua một giai đoạn phát triển vượt bậc trên trường quốc tế, không chỉ về chất lượng sản phẩm mà còn nhờ vào chiến lược quảng bá thông minh và hiệu quả. Từ những bộ phim truyền hình đình đám đến các tác phẩm điện ảnh đa thể loại, phim Hàn đang ngày càng khẳng định vị thế của mình trên toàn cầu.

Một phân cảnh của phim "A Normal Family". Ảnh: Hive Media Corp
Một phân cảnh của phim “A Normal Family”. Ảnh: Hive Media Corp

Ngành công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc đang trải qua một sự chuyển mình mạnh mẽ khi các nhà sản xuất ngày càng chú trọng vào thị trường quốc tế. Sự thay đổi này xuất phát từ hai yếu tố chính: sự bão hòa của thị trường nội địa và sức hút ngày càng lớn của phim Hàn trên toàn cầu. Thay vì chỉ tập trung vào thị trường trong nước, các nhà làm phim Hàn đang hướng đến việc chinh phục khán giả quốc tế mà vẫn giữ vững bản sắc văn hóa riêng.

Một trong những chiến lược then chốt giúp phim Hàn vươn xa là tận dụng sức ảnh hưởng của các ngôi sao đình đám. Những diễn viên như Lee Min-ho, Song Hye-kyo, hay các idol K-pop tham gia đóng phim đều có lượng fan hùng hậu trên khắp thế giới, đặc biệt ở châu Á. Việc kết hợp giữa các ngôi sao nổi tiếng và các tác phẩm điện ảnh chất lượng đã tạo nên sức hút không thể phủ denied đối với khán giả quốc tế.

Ví dụ điển hình cho chiến lược này là bộ phim Omniscient Reader. Với dàn diễn viên toàn sao như Ahn Hyo-seop, Lee Min-ho và Jisoo (BLACKPINK), phim đã thu hút sự chú ý lớn ngay từ khi chưa ra mắt. Lotte Entertainment – đơn vị phát hành – cho biết phim được đặt trước tại 113 quốc gia, bao gồm châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Điều này chứng tỏ sức hút của phim Hàn không chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực mà còn vươn tầm thế giới.

Điện ảnh Hàn Quốc đang chinh phục khán giả quốc tế bằng nhiều thể loại khác nhau, không chỉ dừng lại ở phim tình cảm hay kinh dị. A Normal Family của đạo diễn Hur Jin-ho là một ví dụ, chuyển thể từ tiểu thuyết The Dinner của Herman Koch. Câu chuyện xoay quanh những mâu thuẫn gia đình khi hành vi phạm tội của con cái bị phanh phui. Một trường hợp khác là Hi-Five – phim hành động hài về năm người có siêu năng lực sau khi cấy ghép nội tạng. Dù kinh phí chỉ khoảng 20 tỷ won, phim trở thành hit phòng vé ở Hong Kong và Thái Lan, được khán giả khen ngợi vì sự hài hước thông minh và cách kết hợp giữa siêu năng lực và đời thường.

Với chiến lược bài bản và sự sáng tạo không ngừng, ngành công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Các nhà sản xuất không chỉ tập trung vào chất lượng nội dung mà còn chú trọng quảng bá toàn cầu, tận dụng sức ảnh hưởng của các ngôi sao và sự đa dạng thể loại.

Trong tương lai, phim Hàn sẽ tiếp tục khẳng định vị thế không chỉ ở châu Á mà còn trên toàn thế giới. Và một điều chắc chắn là: khán giả quốc tế vẫn luôn chờ đợi những tác phẩm mới, đậm chất Hàn nhưng mang tầm vóc toàn cầu.

]]>
Bánh Trung Thu Hỷ Lâm Môn – 40 Năm Giữ Lửa Nghề Bánh https://nhipcaudoanhnhan.com/banh-trung-thu-hy-lam-mon-40-nam-giu-lua-nghe-banh/ Wed, 24 Sep 2025 04:08:37 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/banh-trung-thu-hy-lam-mon-40-nam-giu-lua-nghe-banh/

Trong bối cảnh ngành thực phẩm hiện đại hóa và cạnh tranh khốc liệt, những xưởng bánh Trung thu gia truyền dường như đang bị lãng quên. Tuy nhiên, vẫn có những thương hiệu bền bỉ tồn tại, không chỉ giữ vững tay nghề mà còn truyền tải đam mê, truyền thống và giá trị nhân văn qua từng chiếc bánh.

Hỷ Lâm Môn, một thương hiệu bánh Trung thu nổi tiếng tại Sài Gòn, đã trải qua hơn 40 năm hình thành và phát triển. Xuất phát từ một tiệm bánh gia đình nhỏ, Hỷ Lâm Môn đã chứng kiến bao thăng trầm của thời cuộc và sự đổi thay về khẩu vị, thị hiếu và xu hướng tiêu dùng. Tuy nhiên, cam kết về chất lượng sản phẩm, nguyên liệu tự nhiên và cái tâm của người làm bánh vẫn không thay đổi.

Hành trình hơn 40 năm giữ lửa lò bánh Trung Thu gia truyền và tồn tại trong thời đại mới - Ảnh 2.
Hành trình hơn 40 năm giữ lửa lò bánh Trung Thu gia truyền và tồn tại trong thời đại mới – Ảnh 2.

Điều làm nên sức sống lâu dài của Hỷ Lâm Môn không nằm ở công nghệ hiện đại hay chiêu trò marketing, mà ở sự bền bỉ với chất lượng truyền thống. Từ nguyên liệu chọn lọc đến kỹ thuật nướng bánh, mọi thứ đều được làm bằng tay, bằng tâm và bằng sự kiên trì của người thợ bánh lành nghề.

Hành trình hơn 40 năm giữ lửa lò bánh Trung Thu gia truyền và tồn tại trong thời đại mới - Ảnh 3.
Hành trình hơn 40 năm giữ lửa lò bánh Trung Thu gia truyền và tồn tại trong thời đại mới – Ảnh 3.

Bên cạnh việc giữ vững truyền thống, Hỷ Lâm Môn cũng linh hoạt cập nhật xu thế để đưa đến nhiều hương vị hiện đại, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Bao bì sản phẩm cũng được đầu tư chỉn chu, tinh tế qua từng năm, mang hơi thở thời đại nhưng vẫn đậm đà nét Á Đông.

Hơn 40 năm qua, Hỷ Lâm Môn đã giữ vững niềm tin của khách hàng qua nhiều thế hệ. Có những người mua bánh từ thuở còn bé, nay quay lại mua cho con cháu, vẫn chọn Hỷ Lâm Môn như một thói quen, như một phần ký ức không thể thay thế.

Hỷ Lâm Môn không chạy theo xu hướng ngắn hạn, mà chọn cách phát triển chậm rãi, kỹ lưỡng và nhất quán. Từng chiếc bánh không chỉ đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, mà còn phải đúng ‘chất Hỷ Lâm Môn’: thơm, mềm, tinh tế và đậm tình. Đó chính là cách Hỷ Lâm Môn đi qua hơn 40 mùa Trung Thu, bao biến động của thị trường, mà vẫn giữ được bản sắc và chỗ đứng vững chắc trong lòng người Việt.

Song song đó, Hỷ Lâm Môn cũng mạnh dạn bước vào kỷ nguyên số, xây dựng hệ thống bán hàng trực tuyến, nâng cao dịch vụ khách hàng. Dù khách ở xa, mỗi chiếc bánh vẫn được gửi đi đúng hạn, giữ nguyên hương vị như vừa ra lò.

Hỷ Lâm Môn không chỉ mang đến những chiếc bánh Trung thu thơm ngon, mà còn gửi gắm trong đó ký ức tuổi thơ, tinh thần đoàn viên và giá trị văn hóa truyền thống của người Việt. Trong từng chiếc bánh là sự tận tâm, trong từng mùa trăng là hành trình giữ nghề, giữ lòng khách, và giữ gìn bản sắc.

]]>
Giữ tiếng Việt qua 4 thế hệ: Câu chuyện ấm áp về văn hóa và tình yêu quê hương ở Lào https://nhipcaudoanhnhan.com/giu-tieng-viet-qua-4-the-he-cau-chuyen-am-ap-ve-van-hoa-va-tinh-yeu-que-huong-o-lao/ Wed, 24 Sep 2025 00:08:34 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/giu-tieng-viet-qua-4-the-he-cau-chuyen-am-ap-ve-van-hoa-va-tinh-yeu-que-huong-o-lao/

Ở thủ đô Vientiane, Lào, một gia đình nhỏ đã âm thầm giữ gìn và truyền lại tiếng Việt qua 4 thế hệ, như một dòng chảy văn hóa không bao giờ cạn. Đó là gia đình bà Nguyễn Thị Nương, người phụ nữ gốc Việt 97 tuổi, người đã dành cả cuộc đời mình để bảo tồn tiếng mẹ đẻ và văn hóa Việt nơi xứ người.

Bà Nương sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ đầy biến động, và cùng gia đình định cư tại Lào để xây dựng cuộc sống mới. Dù sống giữa một cộng đồng đa văn hóa, nhưng trong căn nhà nhỏ của bà, tiếng Việt vẫn luôn được nói và yêu thương. “Các cháu đi học thì tự nhiên biết tiếng Lào nhưng về nhà là phải nói tiếng Việt. Bố mẹ, vợ chồng, con cái, ai cũng phải nói tiếng Việt hết. Không cho nói tiếng Lào trong nhà, thế nên các cháu không đứa nào nói ngọng. Biết hết tiếng Việt!” – bà Nương chia sẻ với giọng nói chậm rãi nhưng đầy tự hào.

Không chỉ tập trung vào việc giữ gìn ngôn ngữ, gia đình bà Nương còn kiên trì bảo tồn văn hóa Việt qua những phong tục, tập quán truyền thống. Từ những bữa ăn gia đình với lời mời “Mời ông bà, mời bố mẹ…” đến những nghi lễ cổ truyền như giỗ, Tết hay cả Tết Đoan Ngọ mồng 5/5 với tục “giết sâu bọ,” mọi tập tục đều được giữ vẹn nguyên.

Ở tuổi 97, bà Nương vẫn minh mẫn và sống trong tình yêu thương của con cháu. Con cháu bà không chỉ học được tiếng Việt mà còn học cả cách sống, cách làm người theo đúng cốt cách người Việt Nam. “Tôi gìn giữ tiếng Việt vì đó là tiếng của mẹ đẻ, của quê hương, đất nước. Xa quê hương, mình càng không thể để mất” – bà nói. Sự kiên định ấy đã được truyền lại qua các thế hệ như một dòng chảy không bao giờ cạn.

Cháu ngoại của bà, chị Phạm Thu Hương, cũng chia sẻ về việc gia đình chị đã ở Lào 4 đời. Ông bà ngoại và cha mẹ chồng của chị là bạn chiến đấu với nhau từ thời chiến tranh. Các con chị đều nói và viết được tiếng Việt. “Muốn gìn giữ gốc tiếng Việt cho thế hệ trẻ, mọi người trong gia đình đều phải có quyết tâm lớn, giữ gìn truyền thống, phong tục và dành thời gian dài vun đắp” – chị Hương nói.

Anh Trần Viết Thanh Phong, con trai chị Hương và là chắt ngoại của bà Nương, cho biết anh biết nói tiếng Việt từ khi còn nhỏ. Ba mẹ anh dạy rằng mình là người Việt thì phải gìn giữ văn hóa và tiếng nói của người Việt. “Trong thời đại toàn cầu hóa, việc biết nhiều thứ tiếng là một lợi thế nhưng giữ được cái gốc mới là điều quan trọng nhất. Phải nhớ mình là người Việt và nói được tiếng Việt” – anh Phong chia sẻ.

Gia đình bà Nương không phải là trường hợp duy nhất nhưng là một trong những ví dụ điển hình tiêu biểu về việc gìn giữ tiếng Việt nơi xứ người. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, văn hóa và ngôn ngữ dễ dàng bị hòa tan thì việc một gia đình có 4 thế hệ sinh sống tại Lào nhưng vẫn giữ được sự tinh anh, chuẩn mực của tiếng Việt là điều vô cùng đáng quý.

Bởi ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là cầu nối tâm hồn, là nơi lưu giữ ký ức, văn hóa và cội nguồn dân tộc. Câu chuyện về gia đình bà Nguyễn Thị Nương ở Vientiane là một bản nhạc đẹp về tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hóa cội nguồn, và là minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, được nuôi dưỡng bằng tình yêu và ý chí qua từng thế hệ.

]]>
Phát triển du lịch Đồng bằng sông Cửu Long: cần giải pháp chiến lược toàn diện https://nhipcaudoanhnhan.com/phat-trien-du-lich-dong-bang-song-cuu-long-can-giai-phap-chien-luoc-toan-dien/ Sat, 06 Sep 2025 12:22:51 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/phat-trien-du-lich-dong-bang-song-cuu-long-can-giai-phap-chien-luoc-toan-dien/

Sau quá trình hợp nhất, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện bao gồm 5 tỉnh, thành phố là Cà Mau, An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long và Đồng Tháp. Với thế mạnh về tài nguyên miệt vườn, sông nước, biển, đảo, cùng hệ thống danh lam, thắng cảnh và di sản văn hóa phong phú, bản sắc văn hóa độc đáo, du lịch vùng ĐBSCL đang có cơ hội để chuyển mình mạnh mẽ.

Du lịch đồng bằng sông Cửu Long được đặt nhiều kỳ vọng sau hợp nhất tỉnh.
Du lịch đồng bằng sông Cửu Long được đặt nhiều kỳ vọng sau hợp nhất tỉnh.

Quá trình hợp nhất không gian du lịch ở mỗi tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã được mở rộng, giúp các kết nối liên vùng và nội tỉnh trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn. Điều này đã mang đến cho du khách hình ảnh ĐBSCL mới mẻ hơn, hấp dẫn hơn. Sự phân vùng không chỉ giúp tránh chồng lấn sản phẩm mà còn tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch chuyên sâu và bài bản hơn, từ đó thu hút du khách.

Tuy nhiên, dù các tỉnh, thành phố ĐBSCL đã chú trọng công tác liên kết, hợp tác phát triển du lịch, vẫn còn tồn tại thực trạng ‘mạnh ai nấy làm’ dẫn đến sự rời rạc và thiếu tính kết nối. Do đó, sản phẩm du lịch của vùng này có sự trùng lắp, thiếu chiều sâu và gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc xây dựng các tour liên tỉnh.

Các chuyên gia du lịch khẳng định rằng, việc hợp nhất tỉnh là dịp để tái tổ chức ngành du lịch theo hướng chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, để phát triển du lịch ĐBSCL bền vững, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược. Đầu tiên là đầu tư phát triển hạ tầng du lịch hiện đại, đồng bộ từ việc cải thiện hệ thống giao thông liên vùng. Tiếp theo là ứng dụng công nghệ số trong quản lý điểm đến, chỉ dẫn thông minh và quảng bá du lịch. Bên cạnh đó, cần định vị và phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa vùng.

Ngoài ra, tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch quy mô vùng cũng là một yếu tố quan trọng. Đặc biệt, cần đào tạo nguồn nhân lực qua các lớp đào tạo, tập huấn nhân lực du lịch theo chuẩn quốc tế, chú trọng ngoại ngữ, kỹ năng phục vụ và văn hóa ứng xử. Xây dựng và tăng cường cơ chế phối hợp liên kết giữa các tỉnh, thành phố thông qua các hội đồng liên kết và hệ thống thông tin chung để tạo thống nhất trong phát triển sản phẩm du lịch.

Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiệp nhấn mạnh rằng, du lịch ĐBSCL cần có ‘nhạc trưởng’ điều phối để sản phẩm tránh trùng lắp và công tác liên kết du lịch phát huy sức mạnh tổng lực. Công tác liên kết phát triển du lịch ngoài chính quyền cần hướng đến liên kết thị trường, liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và cơ quan truyền thông, quảng bá hình ảnh, thương hiệu du lịch theo hướng phát triển các chuỗi giá trị, sản phẩm du lịch đặc thù. Từ đó, có phân công rõ trong liên kết, phát huy lợi thế, khắc phục hạn chế, chia sẻ lợi ích và phát triển bền vững.

Giám đốc Sở Du lịch Bùi Quốc Thái cho biết, việc thay đổi địa giới hành chính mở ra cơ hội tái cấu trúc mang tính chiến lược. Các địa phương có thể dễ dàng phối hợp hơn trong quản lý tài nguyên du lịch, kết nối hạ tầng và tổ chức tour, tuyến đồng bộ. Từ đó, tạo ra chuỗi giá trị du lịch liên hoàn, hấp dẫn và bền vững.

]]>
Lai Châu: Người Mông đổi đời nhờ xóa đói, phát triển kinh tế bền vững https://nhipcaudoanhnhan.com/lai-chau-nguoi-mong-doi-doi-nho-xoa-doi-phat-trien-kinh-te-ben-vung/ Tue, 02 Sep 2025 05:53:07 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/lai-chau-nguoi-mong-doi-doi-nho-xoa-doi-phat-trien-kinh-te-ben-vung/

Người Mông ở xã Mường Kim, tỉnh Lai Châu, đã và đang tích cực thay đổi tư duy sản xuất và tiếp cận với những tiến bộ khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế bền vững. Với niềm tin vào Đảng và bộ máy chính quyền địa phương, người Mông tại đây đã đoàn kết, đồng lòng xây dựng nếp sống văn hóa mới. Họ đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển chăn nuôi hàng hóa và đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng.

Việc thành lập xã Mường Kim trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích và quy mô dân số của 4 xã đã mang lại không gian phát triển mới cho người dân. Cán bộ gần dân, sát dân đã giải quyết kịp thời các vướng mắc và khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh để thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.

Xã Mường Kim có 16 bản, với 540 hộ và 3.561 nhân khẩu người Mông, tập trung ở các bản như Huổi Pắc, Pá Khoang, Hô Ta, Tu San. Địa phương đã tuyên truyền, vận động nhân dân thay đổi tập quán canh tác lạc hậu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Một số giống cây trồng có năng suất và giá trị kinh tế cao như chè, chanh leo, đào chín sớm, lê, mắc-ca, quế đã được đưa vào gieo trồng.

Bên cạnh đó, người Mông ở xã Mường Kim đã đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm thông qua đầu tư homestay, giữ gìn nghề truyền thống và xây dựng, duy trì chợ phiên Nậm Pắt. Chợ phiên này đã trở thành một điểm đến hấp dẫn cho du khách, mang lại thu nhập cho người dân.

Diện mạo các bản người Mông ở Mường Kim đã thay đổi đáng kể với giao thông đến trung tâm xã được nâng cấp, mở rộng và các bản có nhà văn hóa, trường học được đầu tư kiên cố. Ông Lò Quyết Thắng, Phó Chủ tịch UBND xã Mường Kim, cho biết cấp ủy, chính quyền xã đã bàn bạc và phân vùng phát triển theo từng thành phần dân tộc. Đối với đồng bào Mông, xã vận động bà con phát triển cây chè, cây ăn quả ôn đới và tập trung quảng bá, thu hút đầu tư, huy động nguồn lực phát triển hệ thống homestay, điểm du lịch và du lịch cộng đồng theo hướng bền vững.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi https://nhipcaudoanhnhan.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Sat, 30 Aug 2025 08:40:39 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Thanh Hóa phát triển du lịch cộng đồng bền vững gắn bảo vệ môi trường bản sắc văn hóa https://nhipcaudoanhnhan.com/thanh-hoa-phat-trien-du-lich-cong-dong-ben-vung-gan-bao-ve-moi-truong-ban-sac-van-hoa/ Sat, 23 Aug 2025 20:22:48 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/thanh-hoa-phat-trien-du-lich-cong-dong-ben-vung-gan-bao-ve-moi-truong-ban-sac-van-hoa/

Trong bối cảnh tháng 7 nắng oi ả đang khiến nhiều người tìm kiếm không gian xanh mát để “trốn hè”, Thanh Hóa đã nổi lên như một điểm đến lý tưởng với sự kết hợp hoàn hảo giữa thiên nhiên, văn hóa và bản sắc độc đáo. Trong 6 tháng đầu năm 2025, ngành du lịch Thanh Hóa đã có sự phục hồi ấn tượng, khẳng định vai trò là một động lực kinh tế mũi nhọn.

Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa, trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã đón gần 10,5 triệu lượt khách, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng thu từ du lịch đạt 26.300 tỷ đồng, tăng tới 32,8%. Thanh Hóa hiện có 76 dự án du lịch đang vận hành hoặc triển khai với tổng vốn đầu tư gần 152.000 tỷ đồng.

Suối cá Cẩm Lương thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu.
Suối cá Cẩm Lương thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu.

Tỉnh Thanh Hóa đã xác định ba dòng sản phẩm chiến lược cần tiếp tục phát triển gồm: du lịch biển, du lịch văn hóa – lịch sử – tâm linh và du lịch sinh thái – cộng đồng. Trong đó, du lịch cộng đồng miền núi đang được đánh giá là “điểm sáng mới”, mang lại giá trị cả về kinh tế lẫn bảo tồn văn hóa, sinh thái.

Từ Bản Mạ đến Pù Luông: Du lịch cộng đồng đưa xứ Thanh vươn mình xanh
Từ Bản Mạ đến Pù Luông: Du lịch cộng đồng đưa xứ Thanh vươn mình xanh

Với hơn 8.000 km² diện tích miền núi, Thanh Hóa sở hữu hệ sinh thái phong phú và đa dạng. Khu bảo tồn thiên nhiên như Pù Luông, Pù Hu, Xuân Liên… là nơi bảo tồn nhiều loài động, thực vật quý hiếm. Không chỉ có cảnh quan hùng vĩ, khí hậu trong lành, nơi đây còn là mái nhà chung của hơn 7 dân tộc thiểu số.

Nhiều điểm đến xanh đã gây ấn tượng mạnh như bản Mạ, bản Ngàm, làng Lúng, suối cá thần Cẩm Lương… Du khách đến đây không chỉ để chiêm ngưỡng thiên nhiên, mà còn được sống trong môi trường bản địa, thưởng thức ẩm thực dân tộc, hòa mình vào các hoạt động nông nghiệp, văn nghệ và lễ hội truyền thống.

Chị Lê Thị Tuyết – chủ khu nghỉ dưỡng ở Pù Luông chia sẻ: “Chúng tôi làm du lịch cộng đồng nên chú trọng tối đa vào bảo tồn thiên nhiên, bản sắc dân tộc. Các công trình đều làm bằng gỗ, sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường. 100% nhân viên cũng là người dân tộc Thái bản địa”.

Điểm đặc biệt của du lịch cộng đồng ở xứ Thanh là sự gắn bó chặt chẽ giữa trải nghiệm của du khách và đời sống văn hóa – tâm linh và lao động của người dân địa phương. Du khách có thể tham gia gặt lúa, trồng rau, nấu ăn cùng người bản địa; nghe kể chuyện cổ, tham gia lễ hội…

Tuy đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng ngành du lịch Thanh Hóa vẫn đối diện với một số thách thức như thiếu mặt bằng sạch, tiến độ chậm ở một số dự án, nhân lực chưa đồng bộ, cơ cấu thị trường khách chưa đều.

Để tháo gỡ, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nguyễn Văn Thi yêu cầu các cơ quan liên quan tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm, thúc đẩy du lịch theo hướng chuyên nghiệp và bền vững. Trọng tâm là hỗ trợ người dân phát triển homestay, xây dựng tour du lịch xanh, ứng dụng công nghệ trong quảng bá…

Thanh Hóa còn chú trọng gìn giữ bản sắc văn hóa, chìa khóa then chốt của phát triển du lịch cộng đồng. Như ông Hà Nam Khánh là người tiên phong du lịch cộng đồng tại Bá Thước khẳng định: “Điều làm nên thành công lâu dài chính là sự tôn trọng và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Du khách không chỉ nghỉ ngơi mà còn sống cùng người bản địa, hiểu và yêu vùng đất này”.

Du lịch cộng đồng không còn là “phụ trợ” mà đang trở thành “hạt nhân” trong chiến lược phát triển du lịch xanh của tỉnh Thanh Hóa. Không chỉ giúp người dân miền núi cải thiện sinh kế, du lịch cộng đồng còn là cầu nối lan tỏa văn hóa, bảo vệ môi trường và gìn giữ bản sắc trước làn sóng hiện đại hóa.

Với định hướng đúng đắn, sự đồng hành của người dân và doanh nghiệp, “xứ Thanh” đang từng bước biến mỗi “điểm dừng chân” trở thành “điểm đến xanh” ấn tượng trên bản đồ du lịch quốc gia.

]]>
Xuân Đài bứt phá với du lịch và kinh tế bền vững https://nhipcaudoanhnhan.com/xuan-dai-but-pha-voi-du-lich-va-kinh-te-ben-vung/ Tue, 12 Aug 2025 08:39:31 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/xuan-dai-but-pha-voi-du-lich-va-kinh-te-ben-vung/

Xuân Đài, một xã đặc biệt khó khăn tại huyện Sơn Dương, tỉnh Phú Thọ, đang nỗ lực phát triển du lịch sinh thái dựa trên tiềm năng tự nhiên phong phú của mình. Với diện tích 209,59 km2 và dân số trên 15.000 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 91%, Xuân Đài là một trong những xã đặc biệt khó khăn của tỉnh. Tuy nhiên, địa phương này sở hữu Vườn Quốc gia Xuân Sơn, một khu bảo tồn thiên nhiên rộng lớn với đa dạng sinh học phong phú.

Khách du lịch trải nghiệm và lưu giữ những hình ảnh đẹp về cuộc sống, con người tại Vùng lõi Vườn Quốc gia Xuân Sơn.
Khách du lịch trải nghiệm và lưu giữ những hình ảnh đẹp về cuộc sống, con người tại Vùng lõi Vườn Quốc gia Xuân Sơn.

Vườn Quốc gia Xuân Sơn, với diện tích 15.000 ha, nằm gọn trong địa giới hành chính xã Xuân Đài. Đây là nơi hội tụ sự đa dạng sinh học với 1.264 loại thực vật và 370 loài động vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm. Nhiệt độ trung bình lý tưởng từ 22-23 độ C tạo điều kiện thuận lợi cho hệ sinh thái phát triển. Sự đa dạng và phong phú của hệ sinh thái tại Vườn Quốc gia Xuân Sơn đã tạo ra tiềm năng lớn cho du lịch sinh thái.

Bãi tắm ngoài trời với dòng nước suốt tự nhiên mát lạnh thu hút du khách đến Xuân Sơn trong những ngày hè.
Bãi tắm ngoài trời với dòng nước suốt tự nhiên mát lạnh thu hút du khách đến Xuân Sơn trong những ngày hè.

Trong giai đoạn 2021-2025, xã Xuân Đài đã chứng kiến những bước phát triển đáng khích lệ. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 27,7 tỷ đồng, với tỷ lệ tăng bình quân hàng năm 10,3%. Tổng vốn đầu tư đạt 1.194,3 tỷ đồng, tăng bình quân 11,9%/năm. Sự phát triển của các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh dịch vụ đã góp phần tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người dân.

Để khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch, xã Xuân Đài đã tập trung đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng. Nhiều hạng mục công trình phục vụ du lịch đã được cải tạo, nâng cấp và hoàn thiện như đường giao thông, điểm dừng chân, biểu tượng cổng chào làng du lịch cộng đồng. Giai đoạn 2020-2025, Xuân Đài đã đón trên 30 nghìn lượt khách đến tham quan, trong đó hơn 5 nghìn lượt khách lưu trú qua đêm. Hiện tại, trên địa bàn có 11 nhà nghỉ Homestay đang hoạt động, với khả năng phục vụ khoảng 800 lượt khách.

Trong thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Xuân Đài xác định mục tiêu trọng tâm là tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, chủ động, linh hoạt trong lãnh đạo, chỉ đạo; khai thác hiệu quả các nguồn lực; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và phát huy vai trò chủ thể của người dân trong phát triển kinh tế – xã hội. Mục tiêu là nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, đồng thời chú trọng việc áp dụng khoa học công nghệ và đầu tư phát triển, quảng bá hình ảnh du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái Vườn Quốc gia Xuân Sơn.

Trong giai đoạn 2025-2030, Xuân Đài phấn đấu xây dựng được 1 mô hình du lịch cộng đồng điển hình tại Xuân Sơn, làm tiền đề để nhân rộng và phát triển bền vững. Với những định hướng rõ ràng, sự đầu tư có trọng điểm và tinh thần đoàn kết của toàn thể Nhân dân, Xuân Đài đang từng bước khẳng định vị thế của mình trên bản đồ du lịch, không chỉ là một điểm đến hấp dẫn mà còn là hình mẫu về phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân vùng cao.

Để biết thêm thông tin về du lịch tại Xuân Đài và Vườn Quốc gia Xuân Sơn, vui lòng truy cập Cổng thông tin du lịch Việt Nam hoặc Trang thông tin điện tử tỉnh Phú Thọ để có thông tin cập nhật và chính xác nhất.

]]>
Phim của đạo diễn gốc Việt được chiếu tại Liên hoan phim Karlovy Vary https://nhipcaudoanhnhan.com/phim-cua-dao-dien-goc-viet-duoc-chieu-tai-lien-hoan-phim-karlovy-vary/ Mon, 11 Aug 2025 20:53:35 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/phim-cua-dao-dien-goc-viet-duoc-chieu-tai-lien-hoan-phim-karlovy-vary/

Bộ phim ‘Trường Hè 2001’ hay ‘Letní škola, 2001’ trong tiếng Séc, đã chính thức ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary vào ngày 8/7 vừa qua. Đây là phim đầu tiên của dòng ‘viet-film’ trong lịch sử điện ảnh Séc. Tác phẩm này không chỉ mang tính tự truyện sâu sắc mà còn là tiếng nói mạnh mẽ và chân thực của thế hệ người Việt lớn lên tại Séc, một cộng đồng từng bị lặng tiếng trong đời sống điện ảnh chính thống.



Đạo diễn gốc Việt Dužan Duong (trái) và diễn viên Bùi Thế Dương.

Đạo diễn gốc Việt Dužan Duong (trái) và diễn viên Bùi Thế Dương.

‘Trường Hè 2001’ lấy bối cảnh mùa Hè năm 2001 tại một chợ sầm uất ở Cheb, xoay quanh câu chuyện của Kiên, một thiếu niên 17 tuổi với mái tóc đỏ nổi bật sau khi trở về từ Việt Nam sau 10 năm xa nhà. Bộ phim sử dụng cấu trúc kể chuyện đa góc nhìn kiểu Rashomon, theo chân ba nhân vật: Người cha Zung, đứa trẻ Tài và thiếu niên Kiên. Mỗi góc nhìn mang màu sắc và nhịp điệu riêng từ mafia đến hài hước tuổi teen và nội tâm giằng xé từ sự pha trộn văn hóa. Qua hoạt động như ủi Pokémon lên áo phông, học tiếng Séc và hẹn hò tuổi teen bên hồ, những bí mật dần lộ diện và ảnh hưởng đến cả cộng đồng đang sống quanh khu chợ.

Là người Việt sinh ra và lớn lên tại Séc, đạo diễn Dužan Duong không chỉ là người kể chuyện, anh là một phần của chính câu chuyện đó. Tác phẩm mang đậm yếu tố tự truyện, phản ánh trải nghiệm của một đứa trẻ trong gia đình nhập cư, nơi cha mẹ vắng mặt vì mưu sinh, nơi ngôn ngữ mẹ đẻ dần phai mờ, và nơi bản sắc cá nhân luôn ở trạng thái lưng chừng.

‘Trường Hè 2001’ không chỉ là một bộ phim, đó còn là một cánh cửa. Nó mở ra không gian cho những câu chuyện từng bị xem là ‘ngoại biên,’ cho những con người từng bị gọi là ‘di dân’ và cho những cảm xúc mà trước nay ít ai dám kể bằng điện ảnh. Bộ phim là ký ức tập thể của hàng chục ngàn gia đình người Việt từng và đang sống tại châu Âu.

Với sự tiếp nhận của khán giả, ‘Trường Hè 2001’ là cơ hội để thông điệp nhân văn của bộ phim được lan tỏa rộng hơn. Và điều mà bộ phim muốn hướng tới không gì khác đó chính là giá trị của gia đình trong đời sống của người Việt tại Cộng hòa Séc. Câu chuyện về bản sắc, gia đình, sự hòa nhập và mất mát là những chủ đề phổ quát mà bất kỳ khán giả nào cũng có thể thấu cảm.

]]>
Cần Thơ sau sáp nhập: Cơ hội phát triển du lịch liên tuyến https://nhipcaudoanhnhan.com/can-tho-sau-sap-nhap-co-hoi-phat-trien-du-lich-lien-tuyen/ Thu, 07 Aug 2025 04:39:57 +0000 https://nhipcaudoanhnhan.com/can-tho-sau-sap-nhap-co-hoi-phat-trien-du-lich-lien-tuyen/

Việc hợp nhất các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã mở ra một không gian phát triển mới, đa dạng và đầy hứa hẹn cho ngành du lịch. Thành phố Cần Thơ, với diện tích hơn 6.300km², dân số vượt 4 triệu người và 103 xã, phường, đã trở thành một điểm đến hấp dẫn với nhiều tiềm năng du lịch.

ĐBSCL có nhiều điểm đến, trải nghiệm thu hút khách du lịch
ĐBSCL có nhiều điểm đến, trải nghiệm thu hút khách du lịch

Các doanh nghiệp du lịch nhận định rằng, thành phố Cần Thơ mới sở hữu sân bay quốc tế, các cảng lớn, tổ chức nhiều lễ hội đậm đà bản sắc Nam Bộ, cùng hệ thống cơ sở lưu trú phong phú. Điều này giúp đáp ứng tốt các sự kiện và hoạt động văn hóa, lễ hội lớn. Trong 6 tháng đầu năm, du lịch Cần Thơ đã đón hơn 6,3 triệu lượt khách, trong đó khách lưu trú đạt hơn 2,7 triệu lượt, và doanh thu đạt khoảng 5.450 tỷ đồng.

Sau hợp nhất, các địa phương vùng ĐBSCL có không gian mới, đa dạng cho phát triển du lịch.
Sau hợp nhất, các địa phương vùng ĐBSCL có không gian mới, đa dạng cho phát triển du lịch.

Tuy nhiên, theo bà Lê Đình Minh Thy, Giám đốc chi nhánh Cần Thơ của Công ty Vietravel, giá trị tour và mức chi tiêu của du khách cho các hành trình khám phá vùng ĐBSCL vẫn còn tương đối thấp. Điều này chưa phản ánh đúng tiềm năng và kỳ vọng phát triển của khu vực. Việc hợp nhất các địa phương sẽ tạo cơ hội khai thác sản phẩm liên tuyến dựa trên thế mạnh đặc trưng của mỗi địa phương.

Công tác nghiên cứu và xây dựng sản phẩm liên kết chuỗi giá trị, gia tăng trải nghiệm cho du khách cũng sẽ thuận lợi hơn. Hiệp hội Du lịch ĐBSCL sẽ phối hợp với các địa phương và doanh nghiệp để đẩy mạnh thực hiện Chương trình kích cầu du lịch của Chính phủ. Mục tiêu là thu hút khách đến ĐBSCL, đẩy nhanh tốc độ phát triển du lịch trong tình hình mới.

Với lợi thế tài nguyên du lịch độc đáo và nhiều sản phẩm du lịch tiêu biểu của vùng ĐBSCL có sức hấp dẫn cao, du lịch ĐBSCL sẽ tiếp tục phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, để hiện thực hóa tiềm năng này, cần tiếp tục đầu tư bài bản vào hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị và quảng bá hiệu quả hình ảnh điểm đến.

Sự đồng hành của chính quyền, doanh nghiệp và người dân sẽ là yếu tố then chốt để đưa du lịch vùng ĐBSCL phát triển nhanh, bền vững. Điều này sẽ tạo động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội toàn vùng trong giai đoạn mới. Hiệp hội Du lịch và các doanh nghiệp du lịch đang tích cực làm việc với các địa phương để xây dựng các sản phẩm du lịch mới, đa dạng và hấp dẫn hơn cho du khách.

Trong bối cảnh mới, du lịch ĐBSCL cần những chiến lược cụ thể và sáng tạo để tăng cường quảng bá hình ảnh, tận dụng tối đa lợi thế từ việc hợp nhất các địa phương. Điều quan trọng là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan để xây dựng một ngành du lịch phát triển bền vững, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng ĐBSCL.

]]>