Thứ hai, 26/12/2022
Với những kết quả đã đạt được trong năm 2022, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, năm 2023 để tăng trưởng kinh tế bền vững chúng ta cần nhiều đột phá, trong chỉ đạo, điều hành, tháo gỡ điểm nghẽn.
Trong đó, tập trung ổn định cung cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất, đời sống; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, tăng cường kiểm soát và lành mạnh hóa các thị trường trái phiếu và thị trường tín dụng; định hướng lại hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường thu hút FDI đầu tư mới.
Nhiều tổ chức nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Tháng 9/2022, Ngân hàng Thế giới (WB) nhấn mạnh: Hơn 90% các nền kinh tế phát triển, 80% các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi đều bị hạ dự báo tăng trưởng cho năm 2022 và 2023.
Hoạt động sản xuất tại công ty TNHH Katolec Việt Nam, Khu công nghiệp Quang Minh, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng
Ngày 7/10/2022, WB nhấn mạnh: Thế giới đang đối mặt với “làn sóng thứ 5 của cuộc khủng hoảng nợ”, nhiều quốc gia đang phải đối mặt hoặc có nguy cơ mắc nợ trong bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng và lãi suất tăng cao.
Ngay các nền kinh tế lớn cũng lúng túng trước bài toán tăng mạnh lãi suất có thể gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng việc thả lỏng cho lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ còn tồi tệ hơn.
Ngày 11/10/2022, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo: Thế giới đang ở trong giai đoạn “rất mong manh”, với lạm phát tiếp tục gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày một chậm lại (năm 2022 chỉ tăng 3,2% GDP, so với 6% GDP năm 2021, và năm 2023 chỉ còn là 2,7%); năm 2023 có 25% khả năng tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm xuống dưới mức 2% và hơn 1/3 nền kinh tế toàn cầu sẽ chứng kiến hai quý liên tiếp tăng trưởng âm; cả 3 nền kinh tế lớn nhất – Mỹ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc – sẽ đều tăng chậm lại…
Tuy nhiên, IMF và WB trong dự báo mới nhất đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2022 từ 7 – 7,5% GDP. Nikkei Asia đánh giá Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 8 thế giới về đà phục hồi sau đại dịch Covid-19. Moody’s vào tháng 9/2022 đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng ổn định (chỉ kém mức đầu tư một bậc).
Fitch cũng đang xếp Việt Nam ở hạng BB và triển vọng tích cực. Việt Nam được kỳ vọng trở thành thị trường tiêu dùng toàn cầu lớn thứ 10 thế giới vào năm 2030, vượt qua cả Đức và Anh…
Theo báo cáo của Chính phủ trong phiên khai mạc ngày 20/10 kỳ họp thứ 4 Quốc hội, năm 2022, kinh tế nước ta phục hồi mạnh mẽ và sẽ là năm đầu tiên trong giai đoạn 3 năm dịch Covid-19 qua, Việt Nam đạt và vượt 14/15 chỉ tiêu kinh tế kế hoạch đặt ra, với tăng trưởng GDP khoảng 8%.
Điểm sáng xuất khẩu
Năm 2022, xuất khẩu của Việt Nam nổi lên như điểm sáng cả về kim ngạch, mức xuất siêu, cơ cấu hàng xuất và sự phục hồi thị trường. Chỉ trong 11 tháng năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 673,8 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước, vượt kết quả năm 2021 (668,5 tỷ USD). Trong đó, xuất khẩu ước đạt 342,2 tỷ USD, tăng 13,4%; nhập khẩu ước đạt 331,6 tỷ USD, tăng 10,1%; xuất siêu ước đạt 10,6 tỷ USD.
35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; trong số này có 8 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 10 tỷ USD. Lần đầu tiên xuất khẩu thủy sản Việt Nam có thể đạt mức 11 tỷ USD, tức về đích trước hẹn so với mục tiêu Chính phủ đặt ra là đạt 10 tỷ USD vào năm 2025.
Tất cả các thị trường xuất khẩu đều phục hồi so với năm 2021. Trong đó, các thị trường là đối tác ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với Việt Nam có tăng trưởng ở mức cao, như: Liên minh châu Âu (EU) tăng 23,5%; khu vực Đông Nam Á tăng 23,3%.
Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới và 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị T.Ư 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, từ một nước luôn thiếu đói, Việt Nam đã khẳng định vị thế cường quốc nông nghiệp, với hàng chục nông sản hàng hóa xuất khẩu thuộc tốp dẫn đầu thế giới, như lúa gạo, cà phê, chè, cao su, hạt điều và tôm, cá basa…
Việt Nam xuất khẩu nông sản năm 2021 đạt trên 48 tỷ USD và đang tự tin cán mốc xuất khẩu trên 50 tỷ USD trong năm 2022, với 7 sản phẩm/nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD, gồm: cà phê, cao su, gạo, rau quả, điều, tôm, sản phẩm gỗ… Đặc biệt, nông nghiệp là ngành duy nhất xuất siêu từ khu vực kinh tế trong nước, với mức xuất siêu có năm tới 6 – 7 tỷ USD.
Xuất khẩu nông sản tăng mạnh trực tiếp góp phần để Việt Nam đạt kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2022 trên 700 tỷ USD (tăng 7 lần so với năm 2007 và duy trì vị trí vững chắc trong xếp hạng cao của Việt Nam trên thế giới cả về xuất và nhập khẩu, với vị trí thứ 23 xuất khẩu hàng hóa và thứ 20 về nhập khẩu năm 2021, so với mức tương ứng của năm 2006 là thứ 50 và thứ 44).
Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) được chính thức triển khai trên phạm vi toàn quốc từ năm 2018, với trọng tâm là phát triển sản phẩm nông nghiệp, phi nông nghiệp, dịch vụ có lợi thế ở mỗi địa phương theo chuỗi giá trị, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đến nay, cả nước đã có gần 7.500 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên được thị trường đón nhận tích cực, giúp mở rộng quy mô sản xuất, tăng giá trị sản phẩm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân.
Thu từ cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt gần 264.000 tỷ đồng, tăng tới 25,1%; từ đó, góp phần thu ngân sách Nhà nước 11 tháng đã vượt hơn 16% so với dự toán, trong đó ngân sách T.Ư tăng gần 15% dự toán…
Năm 2023 Việt Nam đạt ngưỡng 100 triệu dân và quy mô GDP cán mốc 10 triệu tỷ đồng. Dù nền kinh tế Việt Nam đang có đà phục hồi mạnh mẽ, nhưng những bất định cũng gia tăng khiến tăng trưởng kinh tế và xuất nhập khẩu có thể chậm lại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài chưa có đột phá rõ rệt.
Phát huy các thành công, không chủ quan, tự mãn và khai thác tốt hơn động lực từ nền tảng đã có, chủ động vượt qua các thách thức, tỉnh táo nhận diện đúng để hành động – đúng cả trong kinh doanh và trong quản lý, cả vĩ mô và vi mô, chúng ta sẽ phấn đấu hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 mà Chính phủ đề ra, với tăng trưởng GDP khoảng 6,5%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.400 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,4 – 25,8%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4,5%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 5 – 6%; tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 26,2%…
Theo Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia (Bộ KH&ĐT), kinh tế Việt Nam năm 2023 có thể diễn ra theo 2 kịch bản: Kịch bản 1, tăng trưởng kinh tế có thể chỉ ở mức 6 – 6,2% nếu các yếu tố rủi ro lấn át xu hướng phục hồi đã thiết lập trong năm 2022. Kịch bản 2 được đánh giá khả quan hơn, tăng trưởng kinh tế có thể đạt mức 6,5 – 6,7% trong điều kiện quá trình phục hồi diễn ra thuận lợi hơn, các tác động từ bối cảnh quốc tế không quá lớn.
“Việt Nam cần cân bằng giữa kiềm chế lạm phát và tăng trưởng. Với nền tảng kinh tế lành mạnh và khả năng lãnh đạo mạnh mẽ, Việt Nam có thể đối đầu những cơn gió ngược trong năm 2023, triển vọng của kinh tế Việt Nam vẫn rất tích cực trong trung, dài hạn và sự tìm đến của dòng vốn FDI là một lá phiếu tín nhiệm với Việt Nam.” – Giám đốc Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam Andrew Jeffries
Nguồn:kinhtedothi.vn